Theo những người già sống lâu năm ở Đà Lạt thì ngôi biệt thự ma nằm ở đầu dốc Prenn được xây dựng vào năm 1912. Chủ nhân của ngôi biệt thự này là của một tên quan ba Pháp. Hắn nổi tiếng là một kẻ thích ăn chơi trác táng. Một đêm nọ, hắn vời một cô kỹ nữ rất đẹp đến. Trong cơn say, hắn muốn chiếm đoạt cô gái. Khi cô gái tìm cách chạy trốn, hắn rút súng chĩa vào cô. Cô gái gieo mình xuống lầu tự tử...
Biệt thự rộng lớn trên đồi Prenn vẫn bỏ hoang...
Lâu dần thỉnh thoảng vào ban đêm, các tài xế chạy qua đây vẫn thường bắt gặp một cô gái mặc đồ trắng toát từ phía dưới đi lên vẫy xe xin đi nhờ lên Đà Lạt. Đã có tài xế dừng lại đón. Họ thấy rõ ràng người con gái ấy đã bước lên xe, nói cười huyên thuyên, thế nhưng, vút một cái, chỗ ghế nơi cô gái ngồi bỗng nhiên trống không.
Có người lại kể rằng mấy tay tài xế taxi khi dừng để cô gái lên xe thì bỗng nhiên tay lái chao đảo. Và sau tiếng nói cười, nữ hành khách ấy bỗng nhiên biến mất. Rồi sau đó, người ta rỉ tai nhau rằng, cô gái này ngày xưa được viên chức người Pháp mời đến nhà chơi, rồi bị hãm hiếp và bị giết chết. Xác cô gái bị ném xuống giếng nước bên trong khuôn viên khu nhà. Một thời gian sau, tên chủ nhà người Pháp này cũng bị giết chết rất dã man.
Một cô gái khác mang thai tìm đến đây và gieo mình xuống cái giếng sâu trong khuôn viên biệt thự chết. Nghe kể, cô gái này rất thiêng, có một đoàn khách đi du lịch đã lập am thờ và cầu nguyện cho cô. Cô gái nhập vào một người trong đoàn nói rằng: tên của cô là Hằng, cô bị chết năm 19 tuổi. Lại nghe kể, thỉnh thoảng vào ban đêm, hoặc khi trời tang tảng sáng, các tài xế chạy xe tải qua đây thường bắt gặp một cô gái bận bộ đồ trắng toát từ phía dưới giếng đi lên vẫy xe xin đi nhờ. Đã có tài xế tưởng người bằng xương bằng thịt, dừng lại đón. Họ thấy rõ ràng cô ấy đã bước lên xe và còn nói cười huyên thuyên, thế nhưng, vụt một cái, chỗ ghế nơi cô ngồi bỗng nhiên trống. Người tài xế nọ phải một phen hú vía.
Căn biệt thự đầu đèo cũng được đồn đại là có ma. Không ai biết rõ có cái chết ly kỳ nào trong đó không, nhưng nghe kể ban đêm, trong căn biệt thự này có tiếng súng nổ, bóng một cô gái mặc đồ trắng đi lại, trên tay bồng một đứa trẻ con và khóc. Đã từ lâu, không ai dám bước vào những căn biệt thự này, chúng thật lạnh lẽo, âm u giữa rừng thông. Đêm trong những ngôi nhà “ma”. Để tìm hiểu thực hư, chúng tôi tò mò, bạo gan rủ nhau đi "săn ma". Suốt 2 đêm, dù đã cố tình quan sát, trở đi, trở lại những biệt thự có “ma” ấy, chúng tôi vẫn không thấy bóng dáng “cô gái mặc áo trắng toát” nào cả. Trong ngôi biệt thự hoang tàn bên đường Trần Hưng Đạo vào những đêm trăng, ánh sáng rọi xuống đúng là trông như một dải lụa trắng. Sương đêm Đà Lạt phủ một lớp mờ ảo ôm lấy căn biệt thự, cùng với ánh đèn đường hắt vào, khiến chúng trở nên bí ẩn trong tiếng côn trùng rả rích. Đến gần những căn biệt thự này, cảm giác ớn lạnh khiến chúng tôi không khỏi rùng mình. Thỉnh thoảng tiếng gió rít ào ào từ ngàn thông vọng vào, bạn bè đi cùng tôi, có đứa bảo nghe như có tiếng ai đó khóc. Có đứa tưởng tượng như đang nghe những bản nhạc du dương.
Trong những căn biệt thự này, trên những bức tường, chúng tôi tìm thấy rất nhiều hình khắc, họa - hoa văn lạ mắt, thường ở nơi cửa hoặc trong phòng ngủ. Ở mỗi căn, hình thù những nét họa lại khác nhau, có hình chìm, hình nổi. Hỏi một số người cao tuổi được biết người phương Tây, cụ thể là người Pháp, cũng mê tín lắm. Đó là những dấu yểm bùa. Các nhà kiến trúc thì bảo, văn hóa của họ thế, đó chỉ là một cách trang trí nhà cửa... Ông Nguyễn Văn Mạnh (63 tuổi), hiện là người bảo vệ, trông coi căn biệt thự dưới đèo, cũng khẳng định những lời đồn đại về 3 cô gái bị chết trong biệt thự này ông có nghe, nhưng “dị bản” khác. Thực hư thế nào ông không biết, nhưng vì biệt thự để lâu, ít người ở lại thêm khí hậu và cảnh quan ở đây (trước ông từng có 2 người làm bảo vệ trông coi căn biệt thự này) nên hoang vắng, lạnh lẽo là phải.
Ông Mạnh cũng bán tín, bán nghi kể rằng: chính ông, một buổi trưa nọ, cũng nghe thấy giọng một cô gái thỏ thẻ bên tai: “Ông ơi, cháu đói bụng quá, ông cho cháu chút gì ăn đi”. Ông Mạnh điếng hồn, và nghĩ ngay đến cô gái chết dưới giếng, nghe đồn rất thiêng. Nhưng, sau định thần lại, ông nghĩ mấy ngày đó ông đang bị bệnh nên thường mê sảng trong những giấc ngủ trưa...Thực hư như thế nào, hiện chúng ta vẫn chưa xác định được. Tuy nhiên, những ngôi nhà đó hầu như chẳng có ai dám vào, và chúng luôn luôn ở trong tình trạng hoang vắng, lạnh lẽo.
Những hiện tượng thường xảy ra với những người ở trong căn nhà này là khi đang ngủ bỗng giật mình tỉnh dậy thì thấy đang nằm lơ lửng trên không trung, hoặc đang nằm ngoài hành lang. Các bác tài trên đường lên đèo Prenn thỉnh thoảng thấy một cái bóng trắng ngồi đung đưa ngoài ban công tầng trên.
Đã có lần, một nhóm 4 thanh niên canh giữ ngôi nhà. Một đêm, khi cả 4 đang ngồi trước lò sưởi bỗng ngọn lửa bùng lên đến hơn 1m, lại có tiếng bập, bập... như súng nổ rồi tự nhiên tắt ngấm. Thế là cả 4 người xách xe máy chạy về Đà Lạt không thấy quay trở lại.
Ông Nguyễn Hồng Nhi (trú tại phường 3, Đà Lạt), người đã một thời nhận hợp đồng bảo vệ ngôi nhà ma nói trên, kể và cho biết thêm, ngôi nhà còn trở nên ly kỳ bởi 3 nấm mộ... tự dưng mà có.
Đó là mộ của người con gái hận tình, thắt cổ tự tử ngay trong ngôi nhà và của hai đứa trẻ chết một cách... bí ẩn. Người quản gia ở đây mỗi ngày đều phải thắp nhang thờ cúng thì mới không bị phá.
Có lẽ vì vậy mà ông ta chưa thấy oan hồn này nhưng con trai ông ta và những người bạn nặng vía đều đã thấy cô gái dân tộc ngày nào bây giờ đã thành một hồn ma già nua nhăn nheo, đáng sợ.
Dọc theo đèo Prenn ngoằn ngoèo, nằm chênh chếch bên con đường quanh co khúc khuỷu dẫn lên Đà Lạt, ngôi biệt thự cổ kính quét vôi trắng vắt mình trên sườn đồi thông hun hút gió. Những người dân trong vùng kể rằng ngôi nhà này đã có niên đại hàng trăm năm. Một khoảng thời gian đủ dài để làm cho mọi cửa kính của ngôi nhà trở nên hoen ố, ngả vàng. Mỗi khi gió từ phía thung lũng lùa vào, các tấm kính lại rung lên bần bật như muốn tung ra. Chỉ riêng âm thanh khô khốc đó thôi cũng biến nơi này thêm đượm màu hoang phế.
Tôi bần thần bước vào ngôi nhà. Vừa qua khỏi cánh cửa được ai đó đánh dấu chữ thập bằng phấn trắng, tôi như lạc ngay vào một thế giới khác, cách biệt hẳn với không gian bên ngoài. Không khí trì nặng. Một cảm giác bất an lập tức lùa vào trong tôi. Âm u lạnh lẽo đến rợn người. Tôi nghe rõ từng hơi thở và nhịp đập gấp của tim mình.
Cái chết đầu tiên mà người ta kể lại là của một phụ nữ người Thượng. Kế bên ngôi nhà có một cái giếng nhỏ sâu hun hút, dễ đến năm chục thước. Vào một ngày, đã lâu lắm rồi, người ta phát hiện một xác chết ở dưới giếng. Giếng đã khô nước, cái xác dựng đứng dưới đó không biết bao nhiêu ngày, da thịt đã bắt đầu rữa.
Khi đưa được tử thi lên miệng giếng người ta biết đó là một cô gái nhờ mái tóc dài xổ ra. Không ai biết tại sao lại có cái xác ấy trong lòng giếng, người ta cũng không điều tra được nguyên nhân của cái chết ấy. Điều duy nhất người ta có thể xác định được là người phụ nữ Thượng trước khi bị ném xuống giếng đã bị giết bằng dao.
Kể từ đó, ngôi nhà bắt đầu ẩn trong lòng nó một truyền thuyết ma quái. Những người chủ ngôi nhà chẳng bao lâu sau phải tự rời khỏi tổ ấm của họ. Nhiều năm trôi qua, chẳng ai dám bén mảng đến ngôi nhà. Cái tên “Ngôi nhà ma đầu đèo Prenn” có lẽ được truyền miệng từ khoảng thời gian ấy.
Đến những năm 1960 , vài đứa trẻ chăn bò dò dẫm vào ngôi nhà hoang kia đã phát hiện ra trên gác của ngôi nhà có hai xác chết quắt queo nằm cạnh nhau, tay trong tay. Người dân trong vùng lại ồn lên một lần nữa. Nghe nói cảnh sát đã vào cuộc điều tra nhưng chẳng tìm ra manh mối nào.
Có vẻ như đó là một vụ tự tử vì tình. Ngôi nhà hoang càng trở nên quái dị đến nỗi ngay cả cánh lái xe tải phớt đời nhất cũng không có gan dừng xe ở khu vực này. Cũng bởi thế, “tiếng tăm” của ngôi nhà càng lan xa.
Thời gian trôi qua, lại có một người con gái, không hiểu vì lý do buồn đời hay buồn tình, tìm đến ngôi nhà, thắt dây thừng vào cổ tìm đến cái chết… Sau đó, lời đồn về những cái chết bí ẩn khác tại ngôi nhà đầu đèo tiếp tục lan truyền với đủ thứ hình ảnh ma quái được thêu dệt.
Tôi đứng sững trong căn phòng lớn của ngôi nhà. Phòng trống hoác, mặt trước nhìn thẳng ra thung lũng, hai bên có mấy cánh cửa nhỏ đóng chặt. Trong không khí có một cái gì đó là lạ. Tôi như nín thở.
Bất chợt, phía sau lưng tôi có tiếng động nhẹ. Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.
Quay đầu khó khăn, tôi điếng người khi nhìn thấy một hình nhân đang đứng bất động ngay cửa ra vào. Nhìn kỹ, hóa ra đó là một ông già gầy guộc và khá cao, khoảng 70 tuổi, cặp mắt soi mói chiếu thẳng vào tôi.
Tôi và ông lão cứ đứng sững như thế đến nửa phút. Rồi ông lão cất tiếng, giọng khàn khàn, hỏi tôi là ai. Khi nghe tôi giới thiệu, gương mặt ông lão mới giãn dần. Thì ra, ngôi nhà giờ thuộc sở hữu của một công ty chuyên về dịch vụ dầu khí của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và ông Minh - tên ông già - được công ty kia thuê để trông coi ngôi nhà nhiều năm nay.
Chúng tôi ngồi uống trà nóng bên một khung cửa sổ xộc xệch trong căn phòng phụ sát phòng lớn, nơi được ông Minh dùng làm bếp. Trời về chiều, không khí mỗi lúc càng lạnh hơn.
Mắt dõi lên đỉnh đồi trước mặt, ông Minh húng hắng kể bằng giọng Huế: “Có lần vào buổi đêm, tôi đang ngủ thì nghe như có tiếng ai kêu khóc. Ban đầu, tôi chỉ nghĩ đó là tiếng gió hú. Bỗng có tiếng gõ cửa. Một cô gái hiện ra ngoài cửa kính, thân hình tiều tụy, còn mặt thì thảng thốt đến nỗi tôi không biết đó là người hay là ma nữa. Cô gái khẩn khoản nhờ tôi đi cùng lên đỉnh đồi. Cô ta nói trong nước mắt nức nở khiến người khác không thể không mủi lòng.
Tuy chẳng biết sự thể gì nhưng nghĩ mình đã gần đất xa trời, sống nơi hiu quạnh, hắc ám này năm bảy năm nay thì cũng chẳng còn gì để phải sợ nữa. Thế là tôi theo cô ta lên đỉnh đồi phía sau nhà. Lên đến nơi, cô ta chỉ vào một nấm đất nhỏ nói rằng cô ta trót đẻ hoang, hài nhi đã chết và cô ta chôn đứa bé trên đỉnh đồi này. Cô ta muốn nhờ tôi chứng kiến cho đứa con đã mất của mình…”.
Một lần nữa, tôi nhìn kỹ ông lão giữ nhà, không biết có nên tin vào điều ông ta vừa kể không. Nhưng rõ ràng cái cảm giác lo lắng cứ bám riết lấy tôi.
Tôi cùng ông lão giữ nhà đi lên đỉnh đồi, nơi chôn cất hài nhi của người phụ nữ kia. Tôi rùng mình nhìn nấm đất nhỏ bé trước mặt, lòng đầy nghi hoặc. Thôi, cứ cho đó là truyền thuyết, lại một truyền thuyết nữa, về một cái chết khác liên quan đến ngôi nhà.
Tôi chỉ còn kịp tranh thủ chút ánh sáng còn lại của ngày để ghi lại vài tấm ảnh về nấm mồ không tên kia.
Mấy chục năm trước đây, ông Minh vốn không phải là một người nghèo. Khi đó ông có một đội xe đò chạy liên tỉnh. Nhưng rồi tài sản của ông lụn bại dần cho đến khánh kiệt. Giờ đây, ông trở thành người đặc biệt khi đơn độc trú ngụ trong một ngôi nhà hoàn toàn không bình thường chút nào.
Tôi ngồi im lặng quan sát ông, cứ tự hỏi vì sao ông lại có thể bình thản sống trong ngôi nhà đáng sợ này hàng chục năm trời nay. “Con người quan trọng nhất là ở cái tâm, có cái tâm rồi thì chẳng phải sợ gì ma quỷ nữa” – ông Minh cười ý nhị.
Rồi ông lụi cụi đi tưới hoa. Phía dưới đồi, ông có mấy liếp rau và su hào. Đó là cái rẫy của ông. Ở đây, ông sinh hoạt như người dân tộc, gần như tự cung tự cấp. Tài sản còn lại của ông hầu như chẳng đáng gì, bao gồm cả con chó nhỏ chạy lạc vào ngôi nhà này mà ông đang nuôi.
Cùng với con chó, hội họa, hay nói đơn giản hơn là một cách tập tành vẽ tranh – những bức tranh mực tàu mà ông chỉ có thể tặng chứ không bao giờ bán – đó là niềm vui sống duy nhất của ông. Còn tại sao chỉ vẽ bằng mực tàu thì thật dễ hiểu: Ông lão chỉ có chừng ấy tiền mà thôi.
Thế nhưng, đó lại là một con người tự trọng, vì đáng lẽ ra với không ít khách đến tham quan ngôi nhà ma đầu đèo này, ông đã có thể làm được chí ít cái động tác thu “vé vào cửa”. Vậy mà, ông lại không hề nhận tiền của ai, còn tận tình hướng dẫn khách lên lầu xuống gác.
Ngược hẳn với dự tính ban đầu, đêm đó tôi đã ngủ lại ngôi nhà đầu đèo. Ông Minh cười hóm hỉnh, hỏi tôi muốn ngủ phòng nào. Trước đó trong bữa ăn tối, tôi đã bốc lên nói rằng tôi muốn có đôi chút cảm xúc gì đó để có thể viết một truyện ngắn về ngôi nhà này.
Đã trót thì phải trét, nhưng vấn đề là phòng nào? Trong ngôi nhà này, căn phòng nào cũng đều có lịch sử ớn lạnh của nó. Nếu là phòng hướng Đông thì đã từng có một tay anh chị ở chợ Đà Lạt, không biết cá cược với chúng bạn thế nào, đến xin ông Minh cho ở ba đêm.
Nhưng chỉ đến đêm thứ hai, tay này mặt cắt không còn hột máu, nói như thét vào mặt ông lão giữ nhà là đã thấy một người đàn bà mặc đồ trắng, tóc tai rũ rượi cứ kéo chân hắn. Còn nếu là căn phòng mà cô gái treo cổ ở phía Tây thì càng đáng sợ hơn, vì vết sơn đỏ mà cơ quan chức năng làm dấu trên tường chỗ có buộc dây thòng lọng vẫn còn sờ sờ ra đó.
Tai quái thay, căn phòng này lại có đến ba cửa. Cả ba cửa đều không có khóa, chưa kể cánh cửa ra vào luôn sẵn sàng bật tung mỗi khi có một cơn gió thốc tới. Suốt đêm đó, tôi không tài nào ngủ được, dù đã tự cố trấn an mình bằng mọi lý lẽ.
Đêm càng khuya, gió càng mạnh, quăng quật và lồng lộn. Tôi ngồi nép sát vào vách tường, cố làm sao để có thể quan sát đồng thời cả ba cánh cửa. Đến 1g sáng, tôi bắt đầu có ảo giác, mắt tôi bắt đầu nhìn thấy những ảo ảnh chập chờn ở phía sau những cánh cửa.
Có một thoáng, khi tôi vừa nhắm mắt lại, cánh cửa ra vào bỗng bật tung ra. Tôi điếng người, cảm thấy máu trong cơ thể mình đông cứng lại. Đến 5g sáng, không còn đủ sức chịu đựng nữa, tôi bật dậy như lò xo, lao xuống cầu thang. Vừa hết cầu thang, tôi suýt ngã nhào khi trông thấy một cái bóng dài ngoằng.
Trấn tĩnh lại mới nhận ra ông lão giữ nhà. Chẳng cần phải hỏi, chỉ nhìn mặt tôi, ông hiểu ra tất cả.
Thời gian trôi qua, tôi không còn thấy ngôi nhà ma ấy đáng sợ nữa. Chỉ có điều, thỉnh thoảng nó vẫn làm trong tôi trào lên một cảm xúc khó tả, một thứ cảm giác cô quạnh của hình ảnh ông lão lọm cọm bước đi trên sườn đồi trong ráng chiều hôm.
Nhiều lần, người ta nghe nói đến những dự án cải tạo lại ngôi nhà để phục vụ vào việc kinh doanh du lịch, nghe đâu còn có cả một ý tưởng lớn lao hơn. Nhưng rồi, mọi thứ cứ lãng quên dần, chẳng biết có còn ai đoái hoài tới chúng hay không.
Chỉ biết một điều hiển nhiên là ngoài ông lão thân cô thế cô đang giữ nhà, thật sự không một ai khác có đủ can đảm để coi đó là chỗ ở, hay là chỗ vui chơi của mình.
Bẵng đi một thời gian, tôi không có dịp lên Đà Lạt nên không gặp lại ông lão giữ nhà. Thế rồi nhân lễ kỷ niệm 110 năm của thành phố sương mù, tôi lên Đà Lạt liền ghé lại ngôi nhà. Tôi nhìn thấy một ông già, nhỏ tuổi hơn ông Minh một chút, đang đứng trên cầu thang ngôi nhà.
Tôi vội hỏi thăm về ông lão giữ nhà thì được trả lời: “Ông ấy chết rồi”. Tôi bàng hoàng. Tôi xin phép vào phòng khách thắp nhang cho ông Minh. Chỉ có một lư hương nhỏ đặt trên cái bàn xiêu vẹo, ngoài ra chẳng còn gì khác. Lát sau thấy tôi với ông Minh có vẻ là chỗ thân tình, ông già giữ nhà mới nói nhỏ: “Nghe nói là ông ấy uống thuốc trừ sâu”.
Tôi bật hiểu. Việc ông lão giữ nhà bị con cái hắt hủi thì tôi đã từng nghe, chỉ có điều tôi không ngờ mọi chuyện lại kết thúc như thế này.
Những đợt gió lạnh từ phía thung lũng tràn thốc vào ngôi nhà. Tôi ngẩng lên nhìn người kế nhiệm ông Minh. Ông ấy tên là Mận. Lại một ông già nữa. Nhưng ông già này còn mới quá, hay chính xác hơn là còn trẻ quá so với bề dày thời gian của cái nơi mà ông đang coi giữ.
Thậm chí, hỏi chuyện mới hay ông ta còn không biết có một cái giếng đã bị lấp đi nằm bên hông của ngôi nhà, nơi có một cô gái bị giết....